Đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại, phát triển của Đảng, đường lối chính trị đúng thì mới tạo nên thành công của cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn lịch sử dân tộc, xu thế vận động của thời đại, từ đó tạo nên những thành công vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Đó là một đường lối chính trị chất lượng, khoa học, cách mạng và nhân văn được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới; tôn trọng quy luật khách quan; phản ánh đầy đủ khát vọng, lợi ích của quốc gia - dân tộc. Một đường lối chính trị cứng rắn về chiến lược, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt về phương thức tiến hành, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Với đường lối chính trị đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang hoàn thành tốt sứ mệnh lịch sử mà dân tộc giao phó.
Tuy nhiên, trong suốt thời gian qua, các thế lực thù địch đã không ngừng xuyên tạc, phủ nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Chúng cho rằng, chủ trương, đường lối của Đảng ta là sự “nhào lộn vô nguyên tắc”, “không có gì mới mẻ”, “khư khư ôm cái cũ đã lỗi thời”. Mục tiêu của các thế lực thù địch là bôi nhọ, hạ thấp uy tín, danh dự, năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận tính độc lập, chủ động, sáng tạo và bản lĩnh chính trị, trí tuệ của Đảng trong xây dựng đường lối chính trị, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Thực tiễn nội dung đường lối chính trị và những thành quả cách mạng Việt Nam đạt được qua các giai đoạn lịch sử trong suốt 95 năm qua đã chứng minh: đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là đường lối chính trị đúng đắn, khẳng định bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam; đập tan luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể:
1. Đường lối chính trị của Đảng giai đoạn đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
Tính độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo trong xây dựng đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ nét ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị hợp nhất Đảng (2/1930). Trên cơ sở phân tích rõ đặc điểm, tình hình và những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, để đi tới xã hội cộng sản”(1). Mục tiêu chiến lược đó không những phù hợp với nguyện vọng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân mà còn phù hợp với quy luật vận động của lịch sử dân tộc và xu thế thời đại. Mục tiêu đó đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền mật thiết với nhau thể hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên còn chỉ rõ nhiệm vụ, mục tiêu, lực lượng, phương pháp cách mạng, công tác xây dựng Đảng… Tuy nhiên, về nhiệm vụ cách mạng: trong khi Quốc tế Cộng sản tuyên bố đường lối “lấy giai cấp chống giai cấp” thì Đảng ta lại đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” (2). Về lượng lực tham gia cách mạng: mặc dù Quốc tế cộng sản cho rằng Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân không thể hợp tác liên minh với giai cấp tư sản dân tộc nhưng trên cơ sở đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng giai cấp dân tộc, Đảng ta lại khẳng định: ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng cơ bản, phải đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập” (3).
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến; kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và kết hợp thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến của cách mạng thời đại là tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, Cương lĩnh trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết nhân dân và lãnh đạo phong trào cách mạng.
Luận cương chính trị (10/1930) của Đảng đã làm sáng rõ hơn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam khi khẳng định: “Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”(4), sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”(5).
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành một chính sách thời chiến rất phản động. Chúng phát xít hoá bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngay khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Đảng ta đã kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng công tác đô thị và quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng cho phù hợp với tình hình. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, Ban chấp hành Trung ương đã liên tiếp tổ chức Hội nghị lần thứ sáu (11/1939), Hội nghị lần thứ bảy (11/1940) và Hội nghị lần thứ tám (5/1941). Qua các Hội nghị, Đảng ta đã hoạch định chủ trương và nhiệm vụ cách mạng mới với những nội dung chính như: đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đoàn kết rộng rãi lực lượng toàn dân tộc trong Mặt trận Dân tộc thống nhất, đặt công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang làm nhiệm vụ trung tâm của cách mạng Đông Dương… Chủ trương đúng đắn của Trung ương Đảng thể hiện rõ sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về tư duy cách mạng, về lãnh đạo chính trị, độc lập, tự chủ trong xác định đường lối, vượt qua những bệnh ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều trong những năm trước đó, đặt nền tảng cho thành công của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Cũng trong ngày 9/3/1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của cách mạng sau đảo chính là phát xít Nhật; từ đó, chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Chủ trương của Đảng trong bối cảnh mới đã thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh và khởi nghĩa trong nhân dân, tập dượt quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến những hình thức đấu tranh cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Khi điều kiện tổng khởi nghĩa chín muồi, ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Tân Trào, Tuyên Quang quyết định phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai của Nhật trước khi quân Đồng Minh Anh - Mỹ kéo vào Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Cách mạng Tháng Tám đã giành được thắng lợi nhanh, gọn, ít đổ máu, chỉ với 15 ngày chính quyền cả nước về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là một trong những bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đập tan xiềng xích áp bức của thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cả dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám thành công đã góp phần xác lập và nâng cao vị thế của dân tộc Việt Nam trong hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế giới. Nói về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền trong cả nước”(6).
2. Đường lối chính trị của Đảng trong giai đoạn xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng (1945 - 1946)
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức. Kinh tế hết sức nghèo nàn, lạc hậu, hàng vạn công nhân không có việc làm, việc buôn bán, giao lưu trao đổi với nước ngoài bị đình trệ, nền tài chính quốc gia hầu như trống rỗng. Các “di sản” văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân để lại khá nặng nề, hơn 90 % dân số Việt Nam mù chữ. Các thế lực chính trị phản động chống phá cách mạng rất quyết liệt. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải đối phó với âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực bên ngoài như quân Tưởng, quân Anh, quân Nhật, Mỹ, thực dân Pháp. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa kịp củng cố và phát triển. Điều đó khiến vận mệnh dân tộc rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong bối cảnh đó, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên, Chính phủ đã đề ra “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” và được khái quát lại thành ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, chống giặc ngoại xâm. Ngày 25/11/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc” chỉ rõ: kẻ thù chính của cách mạng là thực dân Pháp xâm lược, nhiệm vụ chủ yếu là “Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”, trong đó củng cố chính quyền cách mạng là nhiệm vụ quan trọng nhất.
Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong những năm 1945 – 1946, chúng ta đã thành công trong giải quyết nạn đói, khắc phục khó khăn về tài chính, giải quyết nạn dốt, xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trước sự bao vây, tấn công của các thế lực thù địch, để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ngày càng kín đáo và có hiệu quả hơn, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật, Đảng chỉ để một bộ phận cán bộ, đảng viên hoạt động công khai dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Đặc biệt, trong lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đã thực hiện sách lược ngoại giao linh hoạt với những bước nhân nhượng có nguyên tắc, đảm bảo lợi ích dân tộc, từng bước phân hóa, loại bỏ kẻ thù, tránh được tình thế một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc. Cụ thể: chúng ta tạm hòa với Tưởng ở miền Bắc để tập trung chống Pháp ở miền Nam (từ 9/1945 đến 3/1946) và hòa hoãn với thực dân Pháp (từ 3/1946 đến 12/1946) để đuổi ngay 20 vạn quân Tưởng về nước, tránh được tình thế cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Có thể nói rằng, với đường lối chính trị đúng đắn, kịp thời trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao…, Đảng ta đã đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đập tan âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của kẻ thù, góp phần củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế, chủ động chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
3. Đường lối chính trị của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đường lối kháng chiến của Đảng được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng, như: Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (25/11/1945); văn kiện Công việc khẩn cấp bây giờ (5/11/1946); Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/12/1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946); tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh (8/1947), trong đó, nội dung cốt lõi của đường lối và tư tưởng chỉ đạo kháng chiến là “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”.
Kháng chiến toàn dân: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, sự thành bại của cách mạng do quần chúng nhân dân quyết định. Nếu không huy động toàn thể dân tộc và các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến thì không thể kháng chiến lâu dài và không thể chiến thắng kẻ thù.
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, coi quân sự là mặt trận đấu tranh chủ yếu, đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định… nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch để chiến thắng kẻ thù.
Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta yếu nên Đảng chủ trương đánh lâu dài. Kháng chiến lâu dài để phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta, đó là “Lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều”. Vừa đánh, vừa xây dựng, phát triển lực lượng, đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng dần dần có lợi cho ta và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng kẻ thù. Kháng chiến lâu dài để chúng ta tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới. Kháng chiến lâu dài để đánh bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp.
Dựa vào sức mình là chính: Là dựa vào sức lực của toàn dân, của đường lối chính trị đúng đắn, độc lập, tự chủ của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của đất nước. Nếu không dựa vào sức lực của mình thì không thể kháng chiến lâu dài được.
Tại Đại hội II (2/1951), Đảng ta thông qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam với 15 chính sách cụ thể, trong đó: xác định rõ kẻ thù, mục tiêu trước mắt của cách mạng, sắp xếp và tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng, sử dụng đúng đắn và phát triển sáng tạo phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh để tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn của quá trình đấu tranh cách mạng và kháng chiến.
Như vậy, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã sớm đề ra và từng bước hoàn chỉnh đường lối kháng chiến, kiến quốc đúng đắn, độc lập, tự chủ, sáng tạo, phù hợp với nguyện vọng, điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, con người, truyền thống lịch sử Việt Nam; khơi dậy và phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, khai thác và động viên được sự ủng hộ của quốc tế để đánh thắng kẻ thù. Đường lối đó có tính thực tiễn rất cao, có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là bằng chứng sinh động về sự đúng đắn và khoa học của đường lối kháng chiến trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi này đã đưa cách mạng Việt Nam chuyển qua một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành độc lập, dân tộc, dân chủ và thống nhất đất nước.
4. Đường lối chính trị của Đảng giai đoạn (1954 - 1975)
Sau tháng 7/1954, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng nhưng miền Nam vẫn nằm dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai. Trong bối cảnh đó, Đảng ta quyết định thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, trong đó: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà, cách mạng miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Quyết định đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng ở hai miền trong thời kỳ này đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản trong cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chiến tranh và cách mạng; hậu phương và tiền tuyến, lao động sản xuất trong xây dựng đất nước và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại… Đây là điểm độc đáo, sáng tạo của một chính đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng một nước bị chia cắt làm hai miền; là một nét độc đáo, là đặc điểm mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng ta vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1975), miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, như: bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; xác lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa với hai hình thức sở hữu: quốc doanh và tập thể, làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân; xóa bỏ được chế độ người bóc lột người - một mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và lưu thông phân phối về cơ bản vẫn được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vẫn ổn định và có nhiều mặt được cải thiện; cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội được xây dựng một bước, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, miền Bắc hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.
Ở miền Nam, ngày 30/4/1975, cờ chiến thắng cắm trên nóc dinh Độc Lập đánh dấu sự toàn thắng của 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của nhân dân ta.
Những thành tựu nêu trên của cách mạng Việt Nam đã chứng minh đường lối chính trị do Đảng ta đề ra đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, phù hợp với thực tiễn Việt nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Với đường lối chính trị đó, Đảng đã lãnh đạo kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng, tạo thời cơ, nắm thời cơ, chớp thời cơ để giành thắng lợi quyết định; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… để tạo nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
5. Đường lối chính trị của Đảng giai đoạn (1975 đến nay)
Năm 1979, Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã thẳng thẳn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có cả những sai lầm về chủ trương, chính sách lớn. Trước yêu cầu cấp bách phải đổi mới đất nước, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, như đổi mới cơ cấu kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh tế; đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại; đổi mới chính sách văn hóa - xã hội; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng… Với việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện, Đại hội VI của Đảng đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước những biến động của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, với bản lĩnh chính trị kiên cường, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó khẳng định: Việt Nam vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta hướng tới, đó là các đặc trưng: Do nhân dân lao động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Cương lĩnh nhấn mạnh: quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Đồng thời, Đại hội VII khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng. Như vậy, Đại hội VII đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đi cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Tại Đại hội VIII (1996), Đảng nhấn mạnh: đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; những nhiệm vụ đề ra trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011), đã bổ sung và phát triển thêm nhiều nội dung, như bổ sung hai đặc trưng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021) xác định mục tiêu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; … đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7). Mục tiêu cụ thể là: phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước: trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Sau gần 40 năm, công cuộc đổi mới đất nước của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thế và lực của Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới. Từ một nước nhỏ bé, nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu, trình độ rất thấp, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008, thuộc nhóm nước đang phát triển. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đạt khoảng 476,3 tỉ USD, trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN, xếp thứ 33 trên thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2024 ước đạt 4.700 USD, tăng gần 25 lần sau ba thập kỷ. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng – an ninh được bảo đảm vững chắc, đời sống mọi mặt của nhân dân không ngừng được nâng cao. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và nâng cao. Đến nay, Việt nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; trong đó có 9 nước đối tác chiến lược toàn diện, 10 nước đối tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 4/5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Quan hệ đối ngoại của Đảng ta với các đảng cầm quyền, tham chính, các đảng cộng sản, công nhân, cánh tả trên thế giới không ngừng được mở rộng và đi vào chiều sâu. Đây là niềm tự hào, là động lực quan trọng để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Mặc dù, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đôi lúc Đảng ta đề ra đường lối chính trị chưa thực sự phù hợp nhưng những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đạt được từ năm 1930 cho đến nay đã khẳng định chắc chắn: đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là đường lối chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo. Đây cũng là bằng chứng sinh động nhất để đập tan luận điệu xuyên tạc của kẻ thù khi cho rằng: chủ trương, đường lối của Đảng ta là sự “nhào lộn vô nguyên tắc”, “không có gì mới mẻ”.
Trong những năm tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam cần tiếp tục để ra đường lối chính trị đúng đắn để đưa dân tộc Việt Nam tiếp tục vững bước đi lên. Muốn vậy, Đảng phải tiếp tục kiên định, trung thành và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam; tăng cường nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách căn bản, có hệ thống, sâu sắc; thường xuyên bám sát thực tiễn, tổng kết lý luận; không ngừng bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng; đồng thời, phòng ngừa nguy cơ sai lầm về đường lối. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng tầm trí tuệ để nắm vững, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, nắm vững lý luận và vận dụng sáng tạo lý luận để đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ và kiên định đường lối chính trị mà Đảng ta đã đề ra./.
(1)Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 2
(2)Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 2
(3)Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 4
(4)Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 97
(5)Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 98
(6)Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.25
(7)Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
6. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
ThS. Vũ Thị Hậu
Khoa Xây dựng Đảng