Lãnh tụ V.I.Lênin đã từng nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”(1), “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”(2). Ngay từ khi thành lập, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Trên cơ sở nhận thức ngày càng sâu sắc vị trí, tầm quan trọng tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào hệ tư tưởng của Đảng và xác định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” (3).
Tuy nhiên, để tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt thời gian qua, các thế lực thù địch luôn dùng mọi thủ đoạn, mọi luận điệu để phá bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, muốn “khu biệt hóa” tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo ra sự đối lập, chia rẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh tiến tới phá vỡ từng mảng trong nền tảng tư tưởng của Đảng, gây ra sự xáo trộn trong ý thức hệ của nhân dân. Một trong những luận điệu mà kẻ thù đưa ra là “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự sao chép nguyên bản, áp dụng khiên cưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin” nhằm xuyên tạc sự thật về tính thống nhất, sự vận dụng sáng tạo và bổ sung phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động. Luận điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những thành công của cách mạng Việt Nam trong 95 năm qua là một trong những minh chứng khẳng định sự vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, bác bỏ luận điệu xuyên tạc “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự sao chép nguyên bản, áp dụng khiên cưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin” của các thế lực thù địch. Cụ thể:
1. Về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc chỉ có thể giành được thắng lợi khi cách mạng vô sản ở các nước chính quốc giành thắng lợi. Hay nói cách khác: thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc có tính chất quyết định tới thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Trong quá trình nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với những kinh nghiệm thực tiễn và đứng trên phương diện của một người dân thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát triển luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc thông qua hình ảnh “một con đỉa có hai cái vòi”. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản lần đầu tiên ở Pari (năm 1925), Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi” (4).
Khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng ở chính quốc có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng nhấn mạnh: cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa không phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở chính quốc; thậm chí còn có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân Châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh …, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” (5).
Với những luận điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh không những phản ánh được mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc mà còn tạo cho cách mạng thuộc địa một vị thế, một trách nhiệm với cách mạng thế giới.
2. Về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân phải là giai cấp đại diện cho lợi ích của dân tộc, cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp phải gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, C.Mác và Ph.Ăngghen lại nhấn mạnh đến vấn đề giai cấp, đến giải phóng giai cấp công nhân. Theo hai ông: để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp bởi khi sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. V.I.Lênin từng nhận xét: đối với C.Mác so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I.Lênin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức.
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp; từ thực tiễn phong trào cách mạng của thế giới, Nguyễn Ái Quốc khẳng định mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp: chỉ có giải phóng được giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc.
Tuy nhiên, căn cứ vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn cơ bản nhất trong xã hội, giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định chưa làm giai cấp cách mạng mà đề cao vấn đề giải phóng dân tộc, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu và cấp thiết của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam, đó là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, giành độc lập cho dân tộc. Tại Hội nghị lần thứ sáu (11/1939), Đảng ta nhấn mạnh: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. Tại Hội nghị lần thứ tám (5/1941), Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và nhấn mạnh: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của giai cấp, của bộ phận đến vạn năm cũng không đòi lại được” (6). Đây chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo nguyên lý về giải quyết quan hệ giai cấp - dân tộc của Đảng ta. Chính vì vậy, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, tạo nên những thắng lợi liên tiếp của cách mạng Việt Nam.
3. Về Đảng Cộng sản
Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng: Đảng Cộng sản là sản phẩm quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân.
Quy luật ra đời (công thức thành lập) Đảng Cộng sản đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân ra đời muộn, lực lượng còn nhỏ bé, phong trào công nhân chưa thật mạnh, trong khi đó phong trào yêu nước lại phát triển rất mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về đảng cộng sản vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh về cả chính trị, tư tưởng, tổ chức, từ đó hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà dân tộc Việt Nam giao phó.
4. Về lực lượng cách mạng
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản, đặc biệt là từ thực tiễn cách mạng Đức và bài học thất bại của Công xã Pari (1871), C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: cuộc cách mạng vô sản muốn giành được thắng lợi thì phải thực hiện khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. C.Mác coi sự ủng hộ của lực lượng nông dân đối với các phong trào vô sản là “một bài đồng ca”, mà nếu không có được bài đồng ca đó thì cách mạng vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu.
Phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công -nông và từ thực tiễn của nước Nga lúc bấy giờ, V.I. Lênin đã nói đến liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với binh lính, vận động thành lập các xô viết công nhân, nông dân và binh lính…
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xác định lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là lực lượng toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng”(7), trong đó: công - nông là chủ của cách mệnh. Đặc biệt, bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy “lòng yêu nước” là mẫu số chung, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã huy động sức mạnh của tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân tham gia vào trận tuyến đấu tranh cách mạng trên cơ sở thái độ chính trị của từng giai cấp, từng tầng lớp: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản bản xứ chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa làm cho họ trung lập” (8). Đây là một luận điểm rất mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới và là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
5. Về phương pháp cách mạng
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: trong cuộc đấu tranh giành quyền thống trị, giai cấp vô sản nhất định phải dùng phương pháp bạo lực cách mạng “bạo lực là bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới” (9). Cùng với việc khẳng định bạo lực cách mạng là phương pháp chủ yếu, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ trong đấu tranh cách mạng phải sử dụng nhiều phương pháp cách mạng khác “Một dân tộc muốn giành độc lập không được chỉ giới hạn ở những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh” (10).
Trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ thực tiễn của phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp, của dân tộc, cần sử dụng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” (11). Tuy nhiên, bạo lực cách mạng đó nhất thiết phải là bạo lực cách mạng của đông đảo quần chúng, bởi “Cách mạng là việc chung của dân chúng”.
Về hình thức bạo lực cách mạng, nếu như chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh đến đấu tranh vũ trang thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có cách nhìn biện chứng khác “Tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng” (12). Như vậy, việc sử dụng hình thức đấu tranh phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo phù hợp với từng lúc, từng nơi, từng thời điểm thì mới tạo nên sức mạnh giành thắng lợi cho cách mạng.
Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lực lượng chính trị quần chúng có vũ trang thô sơ là lực lượng đông đảo nhất và giữ vị trí quyết định. Lực lượng vũ trang, tuy số lượng không nhiều, thiếu thốn về trang bị, non yếu về trình độ tác chiến nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động công kích quân sự ở một số nơi, gây thanh thế cho cách mạng, đồng thời là lực lượng nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa. Bằng sự kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, Cách mạng Tháng Tám có sức mạnh áp đảo, đập tan bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với phương thức đánh địch hai chân - ba mũi - ba vùng (hai chân gồm chính trị và quân sự; ba mũi giáp công gồm quân sự, chính trị, binh vận; ba vùng chiến lược gồm rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị) và việc sử dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh phù hợp với từng vừng chiến lược (vùng rừng núi: lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng: kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị; vùng đô thị: lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu), Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh bại các hình thức chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Như vậy, rõ ràng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là kết quả của sự vận dụng, phát triển sáng tạo học chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Không chỉ có tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, mà tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng Đảng… cũng là kết quả của sự vận dụng, phát triển sáng tạo học chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan và phương pháp luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận và hình thành nên một hệ thống những quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu có vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Tư tưởng của Người là thành quả của một quá trình tư duy sáng tạo, thể hiện tư tưởng cách mạng và khoa học, được kiểm chứng trong thực tiễn. Thành quả to lớn và vĩ đại mà cách mạng Việt Nam đã đạt được trong suốt 95 năm qua, như thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), những thành tựu mà Việt Nam đạt được qua gần 40 năm đổi mới đất nước là bằng chứng sinh động nhất, đanh thép nhất đập tan các luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, trong đó có luận điệu cho rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự sao chép nguyên bản, áp dụng khiên cưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin”, bởi nếu áp dụng rập khuôn, máy móc, giáo điều, khiên cưỡng, không xuất phát từ thực tiễn, không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo thì cách mạng Việt Nam đã không đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ được khẳng định trong quá khứ mà còn thể hiện rõ nét trong hiện tại và cả tương lai. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng khẳng định: “Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta” (13). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của Đảng đã nêu lên một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, đó là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hành trình thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội XIII nêu ra, Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam vẫn phải tiếp tục đương đầu với những luận điệu xuyên tạc và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng. Bởi vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hãy tiếp tục kiên định, vững vàng với mục tiêu, lý tưởng cách mạng, kiên định với nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh phản bác với các luận điệu sai trái, thù địch và hành động chống phá của kẻ thù, cùng nhau phấn đấu vì một nước Việt Nam phồn thịnh, văn minh, hạnh phúc./.
(1): V. I. Lênin (1975): Toàn tập, Nxb Tiến bộ, tập 6, tr. 30.
(2): V. I. Lênin (1975): Toàn tập, Nxb Tiến bộ, tập 6, tr. 32.
(3): Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia- Sự Thật, Hà Nội, tr.88.
(4): Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 1, tr.298
(5): Hồ Chí Minh (2000): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 1, tr.36.
(6): Đảng Cộng sản Việt Nam (2000): Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7, tr.113
(7): Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 2, tr.283
(8): Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 3, tr.3
(9): C.Mác và Ph.Ăngghen (2002): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 23, tr 1043
(10): C.Mác và Ph.Ăngghen (1993): Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 6, tr 523
(11), (12): Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 15, tr.391
(13): Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 7-8.
ThS. Vũ Thị Hậu
Khoa Xây dựng Đảng